Luật An toàn thực phẩm 2010 là nền tảng pháp lý cơ bản, đặt ra các nguyên tắc cốt lõi về an toàn thực phẩm. Luật này định nghĩa rõ ràng các thuật ngữ quan trọng như "an toàn thực phẩm" (đảm bảo thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người), "chế biến thực phẩm" (quá trình xử lý thực phẩm để tạo thành nguyên liệu hoặc sản phẩm), "phụ gia thực phẩm" (chất đưa vào thực phẩm để cải thiện đặc tính), "kiểm nghiệm thực phẩm" (thử nghiệm, đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật), và các quyền cơ bản của người tiêu dùng (được cung cấp thông tin trung thực về an toàn thực phẩm).
Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ là văn bản pháp lý chủ chốt, quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm. Nghị định này bao gồm các quy định về thủ tục tự công bố sản phẩm, thủ tục đăng ký bản công bố sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm biến đổi gen, cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, kiểm tra nhà nước đối với thực phẩm nhập khẩu và xuất khẩu, ghi nhãn thực phẩm, quảng cáo thực phẩm, và phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ là văn bản pháp lý chủ chốt, quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm. Nghị định này bao gồm các quy định về thủ tục tự công bố sản phẩm, thủ tục đăng ký bản công bố sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm biến đổi gen, cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, kiểm tra nhà nước đối với thực phẩm nhập khẩu và xuất khẩu, ghi nhãn thực phẩm, quảng cáo thực phẩm, và phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Các văn bản hướng dẫn và sửa đổi liên quan trong việc cụ thể hóa và cập nhật các quy định:
Nghị định 155/2018/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế, trong đó có sửa đổi khoản 2 Điều 5 của Nghị định 15/2018/NĐ-CP về trình tự tự công bố sản phẩm.
Công văn hướng dẫn của Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), ví dụ như Công văn số 2792/ATTP-SP ngày 04/11/2024, được ban hành để hướng dẫn phân loại sản phẩm tự công bố và đăng ký bản công bố, gửi đến các Sở Y tế, Sở An toàn thực phẩm, Ban Quản lý an toàn thực phẩm và các Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm cấp tỉnh/thành phố.
Thông tư của các Bộ chuyên ngành như Bộ Công Thương (Thông tư 43/2018/TT-BCT) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Thông tư 39/2018/TT-BNNPTNT, Thông tư 34/2018/TT-BNNPTNT) cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn quản lý an toàn thực phẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình, chi tiết hóa các quy định của Nghị định 15/2018/NĐ-CP.
Thông tư quy định chỉ tiêu kiểm nghiệm như Thông tư số 19/2012/TT-BYT của Bộ Y tế, hướng dẫn việc công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm, bao gồm các quy định về kết quả kiểm nghiệm sản phẩm. Các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), ví dụ QCVN 8-2:2011/BYT về giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm, cũng là cơ sở để xác định các chỉ tiêu kiểm nghiệm cần thiết.
Việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ tự công bố đối với một số loại thực phẩm cho thấy một sự phân cấp đáng kể trong quản lý hành chính từ các bộ trung ương xuống chính quyền địa phương. Tuy nhiên, sự tồn tại của các văn bản hướng dẫn từ Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy rằng mặc dù việc tiếp nhận hồ sơ được thực hiện ở cấp địa phương, khung pháp lý tổng thể và các hướng dẫn cụ thể vẫn được ban hành từ các bộ trung ương.
Điều này ngụ ý rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành để đảm bảo việc áp dụng quy định nhất quán trên toàn quốc. Các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố có thể gặp phải những khác biệt nhỏ trong cách diễn giải hoặc các sắc thái thủ tục ở cấp địa phương, ngay cả khi có hướng dẫn từ trung ương. Do đó, việc kiểm tra các quy định địa phương hoặc tìm kiếm sự tư vấn từ các chuyên gia tuân thủ tại địa phương là điều cần thiết. Điều này cũng làm nổi bật sự phức tạp của quản lý an toàn thực phẩm tại Việt Nam, liên quan đến nhiều chủ thể nhà nước.
Nghị định 15/2018/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP. Hơn nữa, Nghị định 155/2018/NĐ-CP đã sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP. Hiện tại, còn có dự thảo sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP. Dòng chảy liên tục của các sửa đổi và văn bản hướng dẫn (như Công văn 2792/ATTP-SP ) cho thấy một môi trường pháp lý năng động. Chính phủ đang tích cực điều chỉnh cách tiếp cận dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và các nhu cầu phát sinh.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào sự hiểu biết một lần về các quy định. Họ phải thiết lập một hệ thống để liên tục theo dõi các cập nhật pháp lý, thông tư, và hướng dẫn chính thức từ các bộ, ngành và cơ quan địa phương có liên quan. Việc không làm như vậy có thể dẫn đến việc không tuân thủ, ngay cả khi họ đã tuân thủ vào thời điểm trước đó. Điều này cũng tạo ra một thị trường cho các dịch vụ cập nhật pháp lý và tuân thủ.
Công văn hướng dẫn của Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), ví dụ như Công văn số 2792/ATTP-SP ngày 04/11/2024, được ban hành để hướng dẫn phân loại sản phẩm tự công bố và đăng ký bản công bố, gửi đến các Sở Y tế, Sở An toàn thực phẩm, Ban Quản lý an toàn thực phẩm và các Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm cấp tỉnh/thành phố.
Thông tư của các Bộ chuyên ngành như Bộ Công Thương (Thông tư 43/2018/TT-BCT) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Thông tư 39/2018/TT-BNNPTNT, Thông tư 34/2018/TT-BNNPTNT) cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn quản lý an toàn thực phẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình, chi tiết hóa các quy định của Nghị định 15/2018/NĐ-CP.
Thông tư quy định chỉ tiêu kiểm nghiệm như Thông tư số 19/2012/TT-BYT của Bộ Y tế, hướng dẫn việc công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm, bao gồm các quy định về kết quả kiểm nghiệm sản phẩm. Các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), ví dụ QCVN 8-2:2011/BYT về giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm, cũng là cơ sở để xác định các chỉ tiêu kiểm nghiệm cần thiết.
Việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ tự công bố đối với một số loại thực phẩm cho thấy một sự phân cấp đáng kể trong quản lý hành chính từ các bộ trung ương xuống chính quyền địa phương. Tuy nhiên, sự tồn tại của các văn bản hướng dẫn từ Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy rằng mặc dù việc tiếp nhận hồ sơ được thực hiện ở cấp địa phương, khung pháp lý tổng thể và các hướng dẫn cụ thể vẫn được ban hành từ các bộ trung ương.
Điều này ngụ ý rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành để đảm bảo việc áp dụng quy định nhất quán trên toàn quốc. Các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố có thể gặp phải những khác biệt nhỏ trong cách diễn giải hoặc các sắc thái thủ tục ở cấp địa phương, ngay cả khi có hướng dẫn từ trung ương. Do đó, việc kiểm tra các quy định địa phương hoặc tìm kiếm sự tư vấn từ các chuyên gia tuân thủ tại địa phương là điều cần thiết. Điều này cũng làm nổi bật sự phức tạp của quản lý an toàn thực phẩm tại Việt Nam, liên quan đến nhiều chủ thể nhà nước.
Nghị định 15/2018/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP. Hơn nữa, Nghị định 155/2018/NĐ-CP đã sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP. Hiện tại, còn có dự thảo sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP. Dòng chảy liên tục của các sửa đổi và văn bản hướng dẫn (như Công văn 2792/ATTP-SP ) cho thấy một môi trường pháp lý năng động. Chính phủ đang tích cực điều chỉnh cách tiếp cận dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và các nhu cầu phát sinh.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào sự hiểu biết một lần về các quy định. Họ phải thiết lập một hệ thống để liên tục theo dõi các cập nhật pháp lý, thông tư, và hướng dẫn chính thức từ các bộ, ngành và cơ quan địa phương có liên quan. Việc không làm như vậy có thể dẫn đến việc không tuân thủ, ngay cả khi họ đã tuân thủ vào thời điểm trước đó. Điều này cũng tạo ra một thị trường cho các dịch vụ cập nhật pháp lý và tuân thủ.